Sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục là những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần của vị thành niên, thanh niên, cần phải thật sự quan tâm, chăm sóc, đầu tư hợp lý góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đánh giá của Bộ Y tế cho thấy, dù có những thành công nhất định, Việt Nam còn những bất cập về công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho vị thành niên, thanh niên như chưa tiếp cận được diện rộng; việc cung cấp thông tin, dịch vụ thân thiện chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng; vị thành niên, thanh niên vẫn còn quan hệ tình dục sớm, không an toàn, mang thai ngoài ý muốn, phá thai không an toàn, nguy cơ lây nhiễm bệnh truyền qua đường tình dục, HIV của vị thành niên, thanh niên chưa được cải thiện đáng kể đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, các khu công nghiệp, nhóm dân tộc thiểu số, đồng giới nam.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, vị thành niên nhóm tuổi từ 10-19 tuổi; thanh niên nằm trong khoảng 15-24 tuổi. Theo Luật Thanh niên Việt Nam, thanh niên từ đủ 16 tuổi – 30 tuổi. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản bao gồm: thông tin, giáo dục, truyền thông, tư vấn về những thay đổi thể chất và tâm lý trong lứa tuổi vị thành niên, vấn đề tình dục, phòng chống HIV, dự phòng các vấn đề sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục. Chăm sóc trước sinh, sau sinh, phá thai an toàn và dịch vụ sau phá thai; dự phòng điều trị bệnh lây qua tình dục, HIV/AIDS; dự phòng, điều trị, theo dõi bạo lực thể chất, tâm lý, tình dục, bạo lực trên cơ sở giới.
Điều tra năm 2017, tuổi trung bình quan hệ tình dục đầu tiên của nhóm 14-24 tuổi là 18,7 tuổi, sớm hơn so với năm 2010 là 19,6 tuổi. Khoảng 13% cho biết trung bình đã có 2 bạn tình; 15% đã quan hệ tình dục trước hôn nhân. Nhóm nữ công nhân di cư quan hệ tình dục không sử dụng biện pháp tránh thai trong 6 tháng qua là 27,8%.
Nhóm dân tộc thiểu số kết hôn sớm hơn 6 lần so với dân tộc Kinh (8,4% so với 1,4%), cao hơn trung bình cả nước 3,5 lần (2,5%). Kiến thức về mang thai của thanh thiếu niên không đầy đủ, chỉ 17% trả lời đúng các câu hỏi những ngày mà phụ nữ có khả năng thụ thai. Tổng số nữ 15-24 tuổi, có tỷ lệ 18/1000 người đã từng phá thai (9,2% số người từng phá thai). Tỷ lệ phá thai nhóm nữ dân tộc thiểu số cao hơn so với nữ dân tộc Kinh, người chưa từng kết hôn. Nhu cầu chưa từng đáp ứng về biện pháp tránh thai hiện đại khoảng 30%, đối với 15-24 tuổi lên đến 48,4%. Có 63,4% từng nghe nói đến bao cao su nam nhưng chỉ 26% biết cách sử dụng đúng. Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019; nữ 10-17 tuổi sinh con trong 12 tháng trước thời điểm tổng điều tra chiếm tỷ trọng 3,3%, miền núi phía Bắc cao nhất với 9,7%, Tây Nguyên chiếm 6,8%.
Thanh thiếu niên chỉ có 27% có kiến thức đúng, toàn diện về HIV/AIDS. Tỷ lệ có thái độ chấp nhận người nhiễm HIV chỉ 14%; nêu được một số triệu chứng viêm nhiễm đường sinh sản chỉ đạt 21% ở nam, 19% đối với nữ vị thành niên, thanh niên. Khoảng 28% nam, 55% nữ có triệu chứng viêm nhiễm đường sinh sản trong 6 tháng qua (2015). Sự hỗ trợ của cha mẹ, thầy cô, cán bộ y tế đối với chủ đề sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục còn hạn chế.
Có khoảng 60% thanh thiếu niên đang đi học bị một hình thức bạo lực học đường trong vòng 12 tháng qua. Bạo lực tinh thần khoảng 50%, bạo lực thể chất 34%, bạo lực tình dục 12%. Học sinh nam bị bạo lực học đường nhiều hơn hoặc sinh nữ. Có khoảng 9,4% thanh thiếu niên từng bị bạo lực gia đình trong 12 tháng qua.
Một thực tế hiện nay, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản còn chủ yếu cho đối tượng đã kết hôn. Các can thiệp của chương trình thiếu hụt giải quyết cho các nhóm thiệt thòi, dân tộc thiểu số, vấn đề giới. Các phương tiện thông tin đại chúng vẫn là nguồn thông tin phổ biến để các bạn tìm kiếm. Yếu tố quan trọng nhất để các bạn trẻ lựa chọn cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục là khoảng cách gần nhà, gần nơi làm việc (38%), tin tưởng vào năng lực chuyên môn của cán bộ y tế (33%), cơ sở trang thiết bị tốt (23%).
Một số vấn đề lưu ý ở Việt Nam hiện nay các nội dung chính sách về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho vị thành niên, thanh niên dù đã được đề cập nhưng chưa bao phủ đối tượng một cách toàn diện, cụ thể, chưa có quy định giáo dục sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục toàn diện cho vị thành niên, thanh niên là yêu cầu bắt buộc cần phải triển khai dồng bộ và toàn diện trong nhà trường. Hiện chưa có hướng dẫn cụ thể vận động tạo môi trường thuận lợi cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho vị thành niên, thanh niên để các Ban, ngành Trung ương, địa phương vận dụng thực hiện, huy động sự tham gia hiệu quả của khối tư nhân, các tổ chức phi chính phủ./.
Quỳnh Anh