Theo các chuyên gia răng hàm mặt, trong các phẫu thuật ở vùng miệng, phẫu thuật nhổ răng khôn được cho là gây lo lắng nhiều nhất cho bệnh nhân.
Để đo lường mức độ lo lắng trước điều trị nha khoa, y học sử dụng nhiều thang đo khác nhau. Mỗi một thang đo có tính giá trị, độ tin cậy khác nhau và sử dụng ở những trường hợp, những đối tượng khác nhau. Các chuyên gia nhận xét, dường như việc lượng giá mức độ lo lắng bằng các thang đo lường mang tính chủ quan, không phản ánh chính xác nhất mức độ lo lắng thực sự của bệnh nhân. Ngoài ra, để sử dụng các thang đo đánh giá mức độ lo lắng ở Việt Nam thường phải chuyển thể từ bản gốc sang tiếng Việt và đánh giá độ tin cậy, tính giá trị của bản Việt hóa đó. Điều này làm mất nhiều thời gian, công sức và đôi khi có những thang đo khi chuyển thể sang tiếng Việt làm mất đi nghĩa ban đầu của bản gốc, không phù hợp, không áp dụng được trên người Việt Nam do sự khác biệt về văn hóa, lối sống và thói quen.
Các chuyên gia nhận xét, lo lắng được xem như một phần của stress, do đó có những tác động sinh lý lên cơ thể. Những nguyên nhân gây stress làm hoạt hóa hệ thống thần kinh tự chủ, chuẩn bị cho đáp ứng của cơ thể và trục hạ đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận được hoạt hóa, hormon cortisol được bài tiết từ vỏ thượng thận đến tất cả các dịch trong cơ thể, trong đó có cả nước bọt. Khi đó, nồng độ cortisol trong nước bọt sẽ tăng lên. Như vậy, việc đo nồng độ cortisol trong nước bọt là một phương pháp dễ dàng, không xâm lấn, khách quan, có thể phản ánh mức độ lo lắng thật sự của bệnh nhân.
Từ tháng 5/2018 đến tháng 4/2019, nhóm tác giả Đào Hoàng Sơn cùng cộng sự Trường Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh đã thực hiện và báo cáo nghiên cứu “ Nồng độ cortisol nước bọt và mức độ lo lắng ở bệnh nhân phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới mọc lệch”. Đối tượng nghiên cứu là 86 bệnh nhân có chỉ định và nhu cầu nhổ, phẫu thuật răng khôn hàm dưới tại bộ môn phẫu thuật miệng, khoa răng hàm mặt - Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
Theo BS Sơn, những bệnh nhân tham gia nghiên cứu có sức khỏe toàn thân tốt, có khả năng thực hiện và cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết trong nghiên cứu; bệnh nhân không hút thuốc trước ít nhất 2 giờ; không sử dụng cà phê, rượu trước ít nhất 12 giờ khi lấy mẫu. Tiêu chuẩn không chọn bệnh nhân tham gia nghiên cứu là bệnh nhân thiếu hoặc có bệnh lý tuyến thượng thận, bệnh nhân nữ đang dùng thuốc ngừa thai; bệnh nhân khô miệng; bệnh nhân đang sử dụng các thuốc có ảnh hưởng đến nồng độ cortisol trong thời gian nghiên cứu; bệnh nhân dị ứng với thuốc tê; bệnh nhân không có khả năng nhận thức và giao tiếp.
BS Sơn cho biết đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả; đánh giá độ khó của răng cần nhổ theo tiêu chuẩn của Montero, sử dụng phim toàn cảnh đánh giá vị trí răng khôn hàm dưới cần nhổ theo phân loại Pell-Gnegory. Có các loại I, loại II, loại III. Độ sâu so với mặt nhai răng cối lớn chia ra loại A,B,C. Trong nghiên cứu, tác giả chọn các răng khôn hàm dưới có mức độ khó II B. Đánh giá mức độ lo lắng của bệnh nhân trước phẫu thuật theo bảng câu hỏi DASS-21 trước phẫu thuật.
Thang DASS-21 (Depression Anxiety Stress Scale - 21 Items) là thang đo lường sử dụng rộng rãi trên thế giới để xác định mức độ trầm cảm, lo lắng, stress. Ở Việt Nam, thang đo DASS-21 được tác giả Trần Đức Thạch và cộng sự Việt hóa, chứng minh độ tin cậy và tính giá trị phiên bản tiếng Việt của thang đo DASS-21. Thang đo DASS-21 là 01 bảng 21 câu hỏi được chia thành 3 thang nhỏ đo lường 3 yếu tố trầm cảm, lo lắng và stress. Mỗi thang chỉ gồm 7 câu hỏi với 4 khả năng trả lời từ 0 đến 3 điểm. Theo BS Sơn, do trong nghiên cứu chỉ đo lường mức độ lo lắng của bệnh nhân nên chỉ sử dụng 7 câu hỏi đo lường lo lắng. Về thu thập mẫu nước bọt không khuyến khích của bệnh nhân tham gia nghiên cứu; tất cả mẫu lấy từ 9 giờ đến 11 giờ sáng để kiểm soát nhịp sinh học của cortisol. Mẫu được thu thập bằng phương pháp chảy nước bọt thụ động, bệnh nhân được yêu cầu ngồi thẳng trên ghế để cho nước bọt chảy thụ động xuống miệng, sau đó nước bọt sẽ được đưa vào ống lấy mẫu. Mẫu nước bọt thu thập tối đa trong 5 phút. Sau đó mẫu được bảo quản ở nhiệt độ âm 80 độ C cho đến khi phân tích. Các mẫu được định lượng nồng độ cortisol bằng phương pháp ELISA.
BS Đào Hùng Sơn báo cáo, 86 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, có 58 bệnh nhân nữ và 33 bệnh nhân nam. Có 86 răng khôn được nhổ gồm 40 răng số 38 và 46 răng số 48. Tuổi bệnh nhân nhỏ nhất là 19 tuổi; lớn nhất là 28 tuổi. Tuổi thường gặp là 21 tuổi chiếm tỷ lệ 20,9%. Kết qủa trong nghiên cứu, bệnh nhân ở mức độ lo lắng ít trước phẫu thuật có 67 bệnh nhân (77,9%), bệnh nhân ở mức độ lo lắng nhiều có 19 bệnh nhân (22,1%). BS Sơn có kết luận, bệnh nhân thuộc nhóm lo lắng nhiều có nồng độ cortisol nước bọt cao hơn sơ với bệnh nhân thuộc nhóm lo lắng ít mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Hạn chế trong nghiên cứu là việc đo lường nồng độ cortisol nước bọt không được phổ biến trước đây ở Việt Nam nên chưa có nhiều kiểm nghiệm trong việc thực hiện nghiên cứu. Ngoài ra người bệnh cũng chưa quen với việc đo lường mức độ lo lắng và nồng độ cortisol nước bọt chưa thật sự chuẩn. BS Sơn cho rằng, những nghiên cứu trong tương lai có thể gợi ý nồng độ cortisol nước bọt là một yếu tố khách quan thể hiện mức độ lo lắng của bệnh nhân./.
Lâm Quyên