Theo các chuyên gia, ở bệnh nhân đái tháo đường cần được tư vấn và hỗ trợ thay đổi lối sống.
Tăng hoạt động thể lực giúp cải thiện đường huyết, kiểm soát cân nặng và giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Kết hợp luyện tập thể lực với can thiệp dinh dưỡng sẽ có hiệu quả giảm HbA1C nhiều hơn. Trước khi bắt đầu chương trình luyện tập thể lực, bệnh nhân đái tháo đường nên được kiểm tra các biến chứng có thể ảnh hưởng bởi vận động thể lực cường độ cao, bệnh mạch vành, bệnh võng mạc, bệnh thần kinh ngoại biên và biến chứng bàn chân đái tháo đường. Không tập thể dục nếu glucose huyết >14,0 hoặc <5,5mmol/L hoặc cảm thấy đói, mệt.
Đối với bệnh nhân có biến chứng thần kinh ngoại biên, nên mang giày phù hợp khi tập thể dục, tự khám chân hàng ngày để ngăn ngừa và phát hiện loét chân. Tập thể dục không làm nặng biến chứng võng mạc không tăng sinh; đối với bệnh nhân biến chứng võng mạc tăng sinh nên tránh các môn tập thể dục như cử tạ, thể thao đối kháng mạnh vì tăng khả năng xuất huyết dịch kính và bong võng mạc, tăng huyết áp.
Ở bệnh nhân dùng Insulin hoặc thuốc kích thích tiết Insulin, hoạt động thể lực làm tăng nguy cơ hạ đường huyết, do đó cần theo dõi đường huyết trước và sau tập thể dục. Để ngăn ngừa hạ đường huyết cần giảm liều Insulin, thuốc kích thích tiết Insulin trước tập hoặc ăn thêm carbohydrate trước và trong khi tập thể dục. Nếu đường huyết thấp cần ăn thêm carbohydrate trước, trong lúc tập. Cần giáo dục bệnh nhân biết xử trí hạ đường huyết do tập thể dục.
Bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 nếu thấy khỏe và không có ceton, vẫn có thể tập thể dục và cần uống nước đầy đủ. Bệnh nhân nên chọn hình thức hoạt động thể lực phù hợp, có thể duy trì lâu dài. Đi bộ là hình thức thuận tiện về thời gian. Qua quan sát hoạt động tập thể dục xem hiệu quả cải thiện kiểm soát đường huyết, giảm nhu cầu thuốc uống đái tháo đường và Insulin, giảm và duy trì cân nặng. Nên tập thể dục 5 ngày mỗi tuần tốt nhất là hết các ngày trong tuần. Thông dụng là đi bộ 30 phút mỗi ngày, không nên ngưng luyện tập hai ngày liên tiếp. Mỗi tuần nên tập kéo dây thun, nâng tạ 2-3 lần. Có thể chia nhỏ, ví dụ đi bộ sau bữa ăn, mỗi lần 10-15 phút. Những hoạt động tăng tiêu thụ năng lượng có lợi là làm vườn, đi bộ lên cầu thang; tránh ngồi kéo dài, mỗi 20-30 phút nên đứng dậy đi lại. Những môn bơi lội, đi bộ nhanh trong nước cũng rất có lợi.
Nguyên tắc dinh dưỡng trong đái tháo đường là đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cân bằng về số lượng và chất lượng; không làm tăng đường huyết nhiều sau ăn; không làm hạ đường huyết xa bữa ăn; duy trì hoạt động thể lực bình thường, duy trì cân nặng hợp lý; không làm tăng các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa, rối loạn lipit máu; không làm thay đổi quá nhanh và quá nhiều cơ cấu và khối lượng bữa ăn; chế độ ăn đơn giản, không quá đắt tiền, phù hợp địa phương.
Ở người thừa cân, béo phì cần giảm cân, mục tiêu giảm 5-10% trọng lượng cơ thể trong vòng 3-6 tháng. Do vậy mức năng lượng khẩu phần ăn cũng giảm dần từ 250-500 Kcal/ngày; giảm từng giai đoạn, không giảm đột ngột. Đối với bệnh nhân gầy yếu nên ăn chế độ ăn tăng năng lượng; đạt được và duy trì mức cân nặng hợp lý. Vòng eo ở nữ nhỏ hơn 80cm, nam nhỏ hơn 90cm. Cân bằng năng lượng là năng lượng ăn vào bằng năng lượng tiêu hao.
Năng lượng được cung cấp từ thực phẩm: glucid 50-60% tổng năng lượng, lipit 20-30% tổng năng lượng, protein 15-20% tổng năng lượng. Có thể khởi đầu mức năng lượng 20-30Kcal/kg cân nặng lý tưởng/ngày. Bình thường nhu cầu tối thiểu 130g glucid/ngày. Bữa ăn nên chọn thực phẩm nhiều chất xơ như rau, đậu, các loại ngũ cốc nguyên hạt như gạo lứt, khoai củ, hoa quả; nên hạn chế bánh kẹo, mứt sấy khô, mật ong, hoa quả ngọt như mít, xoài, đu đủ…
Thực phẩm ăn làm tăng mức đường huyết khác nhau, phụ thuộc chỉ số đường huyết của thực phẩm. Phân loại thực phẩm có chỉ số tăng đường huyết cao ≥70%, trung bình 56-69%, thấp 40-55%, rất thấp ≤40%. Thực phẩm tăng đường huyết nhanh cần hạn chế như khoai lang nướng, bánh mì, bột dong, đường kính, mật ong. Nên dùng thực phẩm tăng đường huyết trung bình – thấp , tăng cường rau xanh.
Về chất béo (lipit), nhu cầu 20-25% tổng năng lượng; trong đó chất béo bão hòa nên dưới 10% tổng năng lượng; cholesterol nên dưới 300mg/ngày. Nên chọn thực phẩm cá, thịt nạc, đậu phụ, lạc, vừng. Tránh ăn thịt mỡ, dầu cọ, dầu dừa, thức ăn chiên, rán. Chọn dầu thực vật như đậu nành, dầu hướng dương. Không nên sử dụng lại dầu đã xào, rán.
Chất đạm cần 15-20% tổng năng lượng; khuyến cáo cung cấp protein 1g-1,2g/kg cân nặng/ngày đối với bệnh nhân đái tháo đường không có protein niệu, không có suy thận. Bệnh nhân có biến chứng thận nên ở mức 0,8g/kg cân nặng/ngày. Lựa chọn sử dụng cá, thủy hải sản, thịt bò, heo ít mỡ, ăn gia cầm bỏ da, có thể ăn trứng 2-4 quả/tuần, ăn cả lòng đỏ và lòng trắng. Chọn dầu oliu, dầu cá, thực phẩm đậu, đỗ, vừng. Ăn trái cây nên ăn nguyên múi, nguyên miếng, không nên ép nước sẽ bị mất chất xơ nên hấp thu nhanh hơn; không nên ăn hoa quả quá 20% năng lượng hàng ngày; chọn ăn trái ổi, lê, táo, cam. Đối với chuối, đu đủ ăn vừa phải, còn dưa hấu, vải, nhãn, xoài cần ăn hạn chế hơn./.
Hữu Lai